[giaban]980,000 VNÐ[/giaban]

[tomtat] S?A NUÔI ONG CHÚA THU?NG H?NG - Maxi Royal Jelly Wealthy Health.
Giá: 980.000 VND
Loại :1650mg/1viên
Hộp: 120 viên
[/tomtat]

[kythuat]





















Một nghiên cứu hóa thạch mới tiết lộ loài rùa mai cứng sống ở các vùng biển ven bờ Trung Quốc cách đây 220 triệu năm là loài rùa “già” nhất từ trước đến nay.

Chúng có mai bụng nhưng phần lưng lại không hề được che chắn.

Tuần trước, một nhóm các nhà khoa học đã công bố phát hiện về loài rùa sống dưới nước cổ đại nhất, với niên đại cách đây 164 triệu năm. Nhưng đó chỉ là một danh hiệu tồn tại trong khoảng thời gian ngắn. Loài rùa nước mai cứng mà Chun Li (Viện khoa học Trung Quốc tại Bắc Kinh) cùng các cộng sự của ông nghiên cứu rồi đặt tên là Odontochelys semistestacea đã tồn tại trước đó rất lâu.

Loài rùa sống dưới nước cổ đại Odontochelys semitestacea có mai dưới bụng để bảo vệ từ phía dưới khi chúng bơi ở các vùng nước ven bờ Trung Quốc. (Ảnh: Marlene Donnelly)

Li cùng cộng sự nghiên cứu tàn dư còn lại bao gồm 2 hộp sọ, khung xươngđược khai quật tại tỉnh Quế Châu – Trung Quốc vào năm 2007. Phân tích của họ được công bố trên số ra ngày 27 tháng 11 trên tờ Nature. Phân tích cho thấy loài rùa hiện đại đã bắt nguồn từ tổ tiên sống dưới nước. Kết quả cũng cung cấp bằng chứng cho giả thuyết về con đường tiến hóa của mai rùa.

Mai hình thành từ bụng

Mẫu nghiên cứu có rất nhiều dấu hiệu của rùa nguyên thủy. Ví dụ, các nhà nghiên cứu phát hiện loài rùa Odontochelys có mõm nhọn, thon dài. Hầu hết các loài rùa hiện đại đều có mõm ngắn. Ngoài ra, phần gốc miệng cùng với hàm trên dưới đều có răng. Theo các nhà nghiên cứu, đây là một đặc điểm nguyên thủy trong khi rùa hiện nay phần mõm có mỏ nhưng lại không có răng.

Trên thực tế rùa đã từng có một phần mai (chỉ che chở vùng bụng). Điều này làm sáng tỏ bước phát triển trung gian trong quá trình tiến hóa mai rùa mà các nhà nghiên cứu chưa từng phát hiện thấy. Trước khi phát hiện ra loài Odontochelys, loài rùa cổ đại nhất được biết đến là loài rùa cạn Proganochelys, sống cách đây khoảng 210 triệu năm trước. Nhưng loài rùa nay đã có mai phát triển hoàn thiện, nó cung cấp rất ít bằng chứng về con đường tiến hóa của mai rùa.

Phần xương của rùa cổ đại cho thấy bụng của nó được bao bọc bởi một lớp vỏ gọi là yếm. (Ảnh: Viện Cổ nhân chủng học và Cổ sinh vật học không xương sống, Bắc Kinh)

Người ta từng có ý kiến rằng mai rùa tiến hóa từ các đĩa xương trên da, rồi mở rộng và gắn kết với nhau để tạo thành bộ giáp cho loài rùa. Cấu trúc tổng thể khi đó sẽ kết hợp với xương sống và xương sườn bên dưới. (Bò sát hiện đại, ví dụ như cá sấu có đĩa xương, cũng giống như một số loài khủng long khác).

Tuy nhiên mẫu nghiên cứu về loài Odontochelys mới đây lại không có dấu tích của đĩa xương trên da. Thay vào đó chúng có xương sườn lớn, mai bụng mở rộng từ xương cột sống. Những đặc điểm này chỉ ra một phương thức tiến hóa mai rùa nữa, trong đó mai ở bụng phát triển trước. Sau đó xương sườn và xương sống sẽ mở rộng để hình thành mai phía trên.

Rùa cổ đại sống dưới nước

Bước tiến hóa, theo như nghiên cứu phát hiện, khớp với quá trình hình thành mai ở phôi rùa hiện đại trong đó xương sống mở rộng ra phía ngoài, xương sườn mở rộng nữa để kết hợp với nhau tạo thành mai.

Mai hoàn thiện ở mặt dưới hóa thạch mới phát hiện cũng cho thấy rùa từng sống dưới nước, nơi phần bụng của chúng dễ bị đối thủ tấn công. Olivier Rieppel – nhà địa lý học thuộc Bảo tàng Field tại Chicago- cho biết: “Bò sát sống trên cạnh có bụng ở gần mặt đất nên ít gặp phải nguy hiểm”.

Phần xương của rùa cổ đại cho thấy rùa Odontochelys không có mai cứng bao phủ trên lưng. (Ảnh: Viện Cổ nhân chủng học và Cổ sinh vật học không xương sống, Bắc Kinh)

Cùng với bài viết trên tờ Nature, các nhà nghiên cứu chỉ ra một giả thuyết nữa về loài rùa được bảo vệ một phần này. Họ cho rằng những con rùa cổ hơn thậm chí còn có bộ mai trên và dưới hoàn thiện. Đối với loài rùa mới phát hiện, chúng có mai trên bị tiêu giảm, mai trên không cứng như xương. Và đây là một hình thức thích nghi cho cuộc sống dưới nước. 

Nhưng Rieppel lại phản đối quan điểm. Ông cho rằng nếu loài rùa này thực sự đã từng mang bộ mai hoàn thiện thì các nhà nghiên cứu sẽ nhận ra các biến đổi trong xương sườn và xương sống của nó. Nhưng thực tế họ lại không phát hiện ra biến đổi nào.

Nghiên cứu được Bộ Khoa học và Công nghệ Trung Quốc, Quỹ khoa học tự nhiên quốc gia Trung Quốc, Viện Khoa học Trung Quốc và Bảo tàng tự nhiên Canada tài trợ.

Hóa thạch tìm được ở miền Nam Utah (Mỹ) 5 năm trước đây là của một loài khủng long mới có ngoại hình tương tự một con gà tây cao 2,1 mét, lông sặc sỡ và có thể chạy 40 km/giờ, sống cách đây 75 triệu năm. 

Phác họa loài khủng long mới, Hagryphus (Ảnh: LiveScience)

Hóa thạch chân và móng vuốt của sinh vật vật ăn thịt này được tìm thấy tại công trình kỷ niệm quốc gia Grand Staircase-Escalante gần biên giới Arizona, cho các nhà khoa học lý do để tin rằng chúng từng tung hoành từ Canada tới phía Nam bang New Mexico. 

Sinh vật được gọi là khủng long Hagryphus giganteus, hay vị thần hình chim 4 chân khổng lồ của vùng sa mạc miền Tây. Các biến chủng nhỏ hơn nhiều của nó trước kia chỉ được tìm thấy ở Montana, Nam Dakota và tỉnh Alberta của Canada. 

Việc phát hiện hóa thạch ở miền Nam Utah đã mở rộng gấp đôi phạm vi được xem là nơi phân bố của chúng. 

Khủng long hình chim có cái mỏ không răng rất khỏe, cánh tay đầy sức mạnh và bộ vuốt ghê gớm giúp nó ăn thịt được động vật và ăn cả thực vật. Những chiếc lông vũ lớn mọc ở cuối lưng sau khi sau khi con vật mất đuôi, đã tạo cho nó dáng vẻ như của một chú gà tây, Lindsay Zanno, thành viên nhóm nghiên cứu, người đặt tên cho con vật, cho biết. 

Các nhà khoa học không rõ lắm về mục đích của những chiếc lông này, nhưng tin rằng nó không phải để bay. "Nó khá khác biệt so với chim hiện đại", cô nói.

Những chiếc xương được tìm thấy từ năm 2001, nhưng phải mất vài năm các nhà khoa học mới khai quật, nghiên cứu và công bố nó là một loài khủng long mới.

Phân tích mới về những hoá thạch chim cánh cụt cổ nhất thế giới đã xác nhận rằng, một vài con đã sống sót qua thời kỳ tuyệt chủng lớn - thời kỳ làm biến mất toàn bộ khủng long 65 triệu năm trước đây. 

Chim cánh cụt 60 triệu năm trước có họ hàng gần gũi với chim cánh cụt mắt vàng ngày nay, một phân tích ADN mới phỏng đoán như vậy. (Ảnh:ABConline)

Chim cánh cụt một thời đã sống trong vùng biển nông ngoài khơi bờ biển phía đông New Zealand 60 triệu năm trước. Giờ đây một nghiên cứu phân tử đã kéo chúng lại gần hơn với chim cánh cụt hiện đại. 

Đồng tác giả của nghiên cứu, giáo sư Ewan Fordyce từ Đại học Otago cho biết chim cánh cụt là một loài chim đặc biệt, tiến hoá muộn hơn nhiều so với các loài khác. 

"Việc tìm thấy chúng trong vòng vài triệu năm quanh thời điểm khủng long tuyệt chủng là một bằng chứng thuyết phục rằng chim hiện đại ắt phải tiến hoá sớm hơn và phân hoá mạnh trong kỷ nguyên khủng long", ông nói 

"Nó cũng cho thấy nhiều loài chim đã sống sót qua thảm hoạ diệt chủng khủng long". 

Nghiên cứu đã kết hợp bằng chứng gene về mối quan hệ tiến hoá giữa những họ hàng xa của chim cánh cụt như hải âu, hải âu lớn, vịt và chim moa. Các nhà khoa học sử dụng ADN của những con chim này để tạo ra một khung quan hệ gia đình rộng, rồi kết hợp nó với bằng chứng hoá thạch, để dự báo về thời điểm những loài chim này xuất hiện trong quá khứ.


Tittle : Origami Statues of Buddha
Author : Kawai
Format : Pdf
Pages : 97
Price : 5.000 VND


Tittle : Origami Omnibus
Author : Kunnihiko Kasahara
Format : Pdf
Pages : 378
Price : 15.000 VND




Tittle : Genuine Origami
Author : Jun Maekawa
Format : Pdf
Pages : 160
Price : 15.000 VND

S?a ong ch�a
Kem du?ng da
Th?i Trang